Friday, February 28, 2014

TÂM LÝ TRỊ LIỆU LÀ GÌ?



ĐI TÌM MỘT ĐỊNH NGHĨA

 

Tâm lý trị liệu (psychotherapy) là một hệ thống các kỹ thuật được thực hiện nhằm cải thiện sức khỏe tinh thần, cải thiện các vấn đề cảm xúc và hành vi của các cá nhân – những người được gọi là “thân chủ”. Những vấn đề này thường khiến cho con người cảm thấy khó khăn trong việc tự quản lý cuộc sống và đạt đến các mục đích mong muốn của mình. Tâm lý trị liệu nhắm đến giải quyết các vấn đề này, thông qua một số những phương pháp và kỹ thuật khác nhau; và chúng được thực hiện bởi những người gọi là “nhà trị liệu” (những chuyên viên được đào tạo về tâm lý trị liệu).

Các cuộc trị liệu thường bao gồm một (hoặc vài) nhà trị liệu và một (hoặc nhiều) thân chủ. Họ gặp nhau để bàn bạc, trao đổi, phát hiện ra những vấn đề gì mà thân chủ đang gặp phải và tìm kiếm cách thức nào để giải quyết chúng. Do những đề tài được bàn bạc trong các buổi trị liệu thường có tính chất nhạy cảm, nhà trị liệu phải có trách nhiệm (thường được pháp luật qui định) tôn trọng tính riêng tư và sự bảo mật cho thân chủ của mình.


Tâm lý trị liệu là phương pháp chữa trị các vấn đề tâm lý chủ yếu bằng phương pháp sử dụng lời nói hoặc các công cụ giao tiếp khác giữa nhà trị liệu và thân chủ. Ở nhiều quốc gia trên thế giới, những người làm tâm lý trị liệu phải được đào tạo, cấp bằng và cấp phép hành nghề. Nhà tâm lý trị liệu có thể xuất thân từ những chuyên ngành khác nhau: có thể là nhà tâm lý, bác sĩ tâm thần, nhà phân tâm, nhân viên xã hội, điều dưỡng viên tâm thần hoặc các chuyên viên khác đang làm việc trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tinh thần.

Trong quyển Tự Điển Bách Khoa Y Học Anh-Việt xuất bản năm 2005 (Chủ biên: GS Ngô Gia Hy – NXB Y Học Tp.HCM) có định nghĩa về tâm lý trị liệu (còn gọi là tâm lý liệu pháp) như sau: “Điều trị các vấn đề tâm lý, cảm xúc bằng các phương pháp tâm lý. Trong tâm lý liệu pháp, bệnh nhân trò chuyện với nhà trị liệu về các triệu chứng và các vấn đề mà họ mắc phải và thiết lập mối quan hệ giữa bệnh nhân và nhà trị liệu. Mục đích của quá trình này là giúp bệnh nhân tìm hiểu chính họ, tạo nên một cái nhìn mới về các mối quan hệ trong quá khứ và hiện tại, thay đổi những hành vi đã định hình của người bệnh” (Sách đã dẫn – tr.784).

Tâm lý trị liệu thực sự không phải là việc gì đó quá mới mẻ, xa lạ hoặc vượt quá tầm hiểu biết của tất cả chúng ta. Theo Alexander (Individual Psychotherapy; 1964): "Bất kỳ ai đang cố gắng cảm thông với một người bạn đang đau khổ hoặc cố trấn an một đứa trẻ đang hoảng sợ, thì cũng có thể xem người ấy đang thực hành tâm lý trị liệu. Người đó đang cố gắng vận dụng các phương thức tương tác về mặt tâm lý để bảo tồn trạng thái thăng bằng về mặt cảm xúc ở một người khác. Những cách thức thông thường này chủ yếu được dựa trên những sự hiểu biết có tính trực giác hơn là sự hiểu biết có tính khoa học. 

Khi bạn đang nói chuyện với ai đó đang có tâm trạng phiền muộn, bạn cũng có thể tự nhiên hiểu được tác dụng tốt của việc giúp cho người ấy giải tỏa cảm xúc. Với một người đang trong trạng thái hoảng sợ, quẫn trí, bạn cũng có thể (bằng sự hiểu biết có tính trực giác) mang đến cho người ấy sự hỗ trợ về mặt cảm xúc bằng những lời khuyên và một thái độ vững chãi để người ấy có thể tin tưởng nương tựa vào bạn. Bạn vốn cũng có thể đã biết rằng khi một người đang bị chìm ngập trong một tình huống có tính nguy hiểm, đáng sợ thì người ấy không thể sử dụng được lý trí của mình một cách hiệu quả, và bạn cần giúp anh ta ổn định bằng cách nâng đỡ về mặt tâm lý. Trong lúc nói chuyện với người ấy về hoàn cảnh khách quan mà anh ta đang đương đầu, bạn có thể cho anh ta ‘mượn’ công cụ lý trí của chính bạn để sử dụng. Khi làm tất cả những việc này, chúng ta đã thực hành một sự phối hợp giữa hai công việc có tính chất chữa trị, một là nâng đỡ (supportive), hai là thấu hiểu (insight)."


Và Alexander đã định nghĩa tâm lý trị liệu “... không gì khác hơn ngoài việc áp dụng một cách có hệ thống, một cách có ý thức những phương pháp mà chúng ta áp dụng để ảnh hưởng lên những người sống xung quanh chúng ta trong cuộc sống thường ngày. Sự khác biệt quan trọng nhất là ở chỗ: nó không đơn thuần dựa trên những sự hiểu biết có tính trực giác mà thay vào đó là phải có sự thiết lập tốt các nguyên lý chung về tâm lý động học (psychodynamics)”. (Sđd. – tr.110).

Như vậy, khác với sự giúp đỡ từ một người thân quen thường gặp trong đời sống, “sự hỗ trợ trong tâm lý trị liệu được tiến hành bởi một nhà trị liệu được đào tạo chuyên nghiệp để có thể làm chức năng hỗ trợ người khác mà không nhất thiết phải trở nên gắn kết với thân chủ của mình về mặt đời sống riêng tư” (Goffman; 1962).

Tâm lý trị liệu, nói chung, nhắm đến việc làm tăng trưởng nhân cách một con người theo chiều hướng trưởng thành hơn, chín chắn hơn, và giúp người đó “tự hiện thực hóa bản thân mình”. 

Có thể tóm tắt một số mục tiêu chính của tâm lý trị liệu như sau:
1.     Gia tăng khả năng thấu hiểu bản thân của thân chủ
2.     Tìm kiếm giải pháp cho các xung đột
3.     Gia tăng sự tự chấp nhận bản thân của thân chủ
4.     Giúp thân chủ có những kỹ năng ứng phó hữu hiệu với những khó khăn
5.     Giúp thân chủ củng cố một cái Tôi vững mạnh, toàn vẹn và an toàn

James C. Coleman (Abnormal Psychology and Modern Life; 1950) nêu ra một số bước cơ bản trong tiến trình làm tâm lý trị liệu như sau:
  • -   Tạo một bầu không khí quan hệ có tính trị liệu
  • -   Giải tỏa cảm xúc của thân chủ
  • -   Tạo sự thấu hiểu nơi thân chủ
  • -   Giúp thân chủ định hình lại cảm xúc
  • -   Kết thúc trị liệu

Từ thời cổ đại, Hippocrates (ông tổ của y học phương Tây) đã từng kể ra ba loại công cụ chủ yếu mà một người thầy thuốc có thể sử dụng để chữa bệnh, đó là: cây cỏ, con dao và lời nói. 

Từ cây cỏ có thể chiết xuất ra các dược liệu, từ con dao có thể cắt bỏ đi những phần cơ thể bị bệnh mà không thể giữ lại được, và từ đó đã dần dần hình thành nên các chuyên ngành nội khoa và ngoại khoa trong y khoa hiện đại. Song chỉ khi có sự hình thành và phát triển của ngành tâm lý học hiện đại và ngành tâm thần học hiện đại, giá trị của việc sử dụng lời nói trong chữa bệnh mới được phát huy thành một phương pháp trị liệu thực sự khoa học. Phương thức trị liệu ấy được một số nhà tiên phong trong lĩnh vực này (như Sigmund Freud chẳng hạn) gọi là “talking cure” nghĩa là sự chữa trị bệnh bằng lời nói – mà về sau trở thành chuyên ngành tâm lý trị liệu với rất nhiều trường phái và khuynh hướng khác nhau.

Điều gì đã giúp tạo nên hiệu quả của phép chữa trị ấy? Nhiều yếu tố giúp tạo nên hiệu quả của tâm lý trị liệu đã được nghiên cứu và thừa nhận như bản chất mối quan hệ trị liệu (Goldstein; 1962), sự hữu dụng của lời nói (Bernstein; 1965), lòng tin của người bệnh (hoặc thân chủ) đối với nhà trị liệu (Frank; 1961). Tuy vậy, tác động thực sự của tâm lý trị liệu vẫn còn là điều gây nhiều tranh cãi mãi cho đến hiện nay. Liệu rằng các cách thức chữa trị bằng lời nói có thực sự chữa trị được các chứng rối loạn tâm trí?

Trong thực tế, việc tranh luận về hiệu quả của tâm lý trị liệu phần lớn xảy ra trong giới chuyên môn, ngay cả giữa những người thực hành tâm lý trị liệu thuộc các trường phái và xu hướng khác nhau. Nhưng có lẽ sẽ thích hợp hơn nếu chúng ta xem xét tác động của tâm lý trị liệu từ góc nhìn và vị thế của người bệnh hoặc thân chủ. 

Thân chủ không “nhìn thấy” những học thuyết và lý luận của nhà trị liệu, mà “nhìn vào” hành vi và thái độ ứng xử của nhà trị liệu. Và vì thế việc ai là nhà trị liệu trở thành điều có khi còn quan trọng hơn cả việc nhà trị liệu áp dụng học thuyết nào, phương pháp nào... 

Thực vậy, nhà trị liệu là người ở vào vị thế có ảnh hưởng lên trên thân chủ, mà nếu không có sự ảnh hưởng này, việc trị liệu sẽ không còn giá trị. Do vậy tâm lý trị liệu có thể được xem là “nghệ thuật tạo sự khích lệ, và kế đó là sử dụng tầm ảnh hưởng của nhà trị liệu lên thân chủ của mình một cách thuần thục” (Micheal Franz Basch).

Mặt khác, người ta khó có thể xác định được hiệu quả của tâm lý trị liệu, mà thay vào đó chỉ có thể xem xét được hiệu năng của nó, tức là việc tâm lý trị liệu tạo khả năng để có thể đạt đến một kết quả mong muốn. Hay nói theo cách của Gregory Bateson: tâm lý trị liệu “cung cấp một sự khác biệt để tạo nên một sự khác biệt mới”

Nhà tâm lý trị liệu không giúp thay đổi những sự kiện trong thực tế khách quan, mà nhắm đến việc thay đổi những gì xảy ra trong thực tại chủ quan của người bệnh hoặc thân chủ. Nói một cách hình tượng thì “nhà trị liệu mang thân chủ đến một điểm mà ở đó họ không còn cảm thấy tuyệt vọng nữa” (Martin Seligman; 1975).

Có một sự mặc định trong việc hiểu rằng: nhà tâm lý trị liệu (psychotherapist) thì làm việc với những người bệnh, những người bị rối loạn chức năng của bộ máy tâm trí, còn các chuyên viên tư vấn (counselor) thì làm công việc giúp đỡ những người đang gặp các vấn đề khó khăn trong cuộc sống. 

Tuy nhiên, cả hai công việc tư vấn và trị liệu tâm lý đều cùng chia sẻ chung những học thuyết, lý luận, kỹ năng và phương pháp. 

Theo Jessie Bernard (1969), “tư vấn tâm lý giúp con người của thân chủ trở lại hòa hợp với số phận của họ, điều chỉnh bản thân họ khi sống đối mặt với những thất bại và đau khổ. Nhưng nếu những thân chủ ấy có những ứng xử không tuân theo các chuẩn mực hoặc có những rối loạn tâm trí nghiêm trọng, thì việc giúp đỡ những thân chủ ấy sẽ thuộc trách nhiệm của nhà tâm lý trị liệu”.

Theo James Bugental, Ph.D.(www.psychotherapy.net):

- Tâm lý trị liệu không làm việc trên những điều bạn suy nghĩ. Đó không hẳn là việc chữa lành một căn bệnh. Đó không phải là sự hướng dẫn của một nhà thông thái. Đó không phải là sự chia sẻ giữa hai người bạn thân. Đó cũng không phải là một quá trình học hỏi những kiến thức.

- Tâm lý trị liệu không liên quan đến những điều bạn suy nghĩ. Đó là sự làm việc trên cách thức mà bạn suy nghĩ. Nó làm cho bạn chú ý đến cách thức mà bạn suy nghĩ. Nó phân biệt rõ giữa những điều bạn đang suy nghĩ đến và cách thức mà bạn thực hiện sự suy nghĩ ấy. Tâm lý trị liệu ít quan tâm đến việc tìm kiếm những nguyên nhân để giải thích những gì bạn đang làm, nó quan tâm đến việc khám phá ý nghĩa từ những việc mà bạn đang làm.
- Tâm lý trị liệu không làm việc trên những điều bạn nghĩ. Nó liên quan đến cách thức mà bạn sống với những tình cảm của mình. Nó liên quan đến những quan điểm bạn áp dụng vào trong những mối quan hệ của bạn với những người xung quanh. Nó liên quan đến những điều bạn muốn đạt đến trong đời và cách thức mà bạn cố gắng để đạt đến những mục đích ấy. Nó liên quan đến các nguồn lực giúp đỡ để bạn có thể tìm thấy những tiềm năng thay đổi trong con người bạn.

BS NGUYỄN MINH TIẾN


Thursday, February 20, 2014

TÂM KỊCH LÀ GÌ?




Tìm hiểu về Tâm kịch

1. Trong việc chẩn đoán và trị liệu, lời nói là phương pháp thông dụng. Moreno (1889 -1974) đề xuất phương pháp tâm kịch làm sao cho chủ thể biểu diễn, diễn xuất như trên sân khấu những nỗi tâm tư thầm kín, kết hợp cả lời nói và điệu bộ với những vẫn động cơ thể, giải tỏa những mặc cảm, ấm ức một cách triệt để hơn là chỉ có tâm sự trong giao tiếp. Diễn xuất ra được trước ít nhiều người khác, tạo ra một tâm thế mới trong sự giao tiếp xã hội khác. 

Khác với Phân tâm học hướng về việc ôn lại quá khứ - chủ thể sống lại những cảnh đời đã trải qua, những tâm trạng yêu ghét, hờn giận, mến phục, ganh tị “như thật”, mặc khác ở đây chỉ có “đóng kịch”, có thể biểu lộ hết tình cảm ra bất kỳ đối với ai (như cấp trên hay bố mẹ), đây chỉ là trò chơi, ra khỏi phòng kịch là mọi người quên hết những gì đã xảy ra. 

Trong tâm kịch, những yếu tố chủ yếu là:

- Trong lời nói không chỉ có nội dung, mà không kém quan trọng trong cách phát âm , cách nói, la thét hay nhỏ nhẹ, ngập ngừng, thổn thức lặp đi lặp lại có khi tuôn ra không kiềm chế được hoặc hoàn toàn bị ức chế.

- Đi đôi với lời nói là nét mặt, điệu bộ, tư thế vận động của những bộ phận khác nhau trong cơ thể, kể cả những biến động trong nội tạng, như tim đập nhanh, đỏ mặt hay tái mặt, thở hổn hển, ruột quặn lại. Tóm lại, sự biểu lộ tâm tư thông qua cơ thể bao giờ cũng diễn ra qua sự biến động của nhịp thở và trương lực cơ bắp.

- Quan trọng hơn cả là chủ thể và những người cùng diễn kịch mà Moreno gọi là những cái Tôi - phụ (Ego auxiliaire ) nhập vai diễn xuất được một cách tự nhiên và mọi người đều nhập cuộc, người diễn cũng như người xem sống trong bầu không khí trong đó mọi ngừơi biểu lộ hết tâm tư của mình.



Theo Moreno, mỗi người ở đây đều tự biên tự diễn, nhưng thường cũng không dễ gì thực hiện được tâm kịch đầy đủ, cho nên có những cách thức đơn giản hơn.

- Chỉ giới hạn ở những diễn xuất thông qua cơ thể không cần lời nói, không thành một cảnh kịch, chỉ làm biến động nét mặt hay tư thế cho phù hợp với những tâm tư nhất định. Đó là phương pháp biểu diễn qua cơ thể (expression corporelle).

- Không phải người nào cũng có khả năng tự biên tự diễn, người thầy suy đoán về tâm tư của chủ thể có thể đề nghị diễn một cảnh kịch nào đó trong văn học hoặc bình ngâm một bài thơ. Người thầy chuẩn bị sẵn một quyển tập văn kịch, văn thơ và đề xuất diễn một số cảnh. Đó là phương pháp biểu diễn sân khấu (expression scénique). Trong việc này nhà tâm lý cần được sự giúp đỡ của một nghệ nhân sân khấu trong việc tuyển lựa bài vở và tập luyện thao tác.

- Ở mức cao hơn làm cho chủ thể biểu lộ và giải tỏa mặc cảm ấm ức bằng sáng tạo nghệ thuật: vẽ, nặn, tượng, trạm trổ, văn thơ. Đó là phương pháp biểu diễn tạo hình (expression plastique).

- Một bài tập thể dục bình thường nên biết vận dụng tâm lý chung có thể trở thành tâm pháp; tập luyện dưỡng sinh và nhất là thư giãn nếu không biết tiếp theo bằng tâm pháp thì không thể thành công triệt để trong những trường hợp có rối nhiễu tâm lý. 



Trong tất cả các phương pháp nói trên, người thầy đóng vai trò chủ xướng, đạo diễn, gợi ý, dìu dắt, giúp cho lý giải, nhưng không áp đặt ý muốn chủ quan. Người thầy cần làm chủ bản thân đến cao độ, không để cho những phản ứng tự phát vô thức của bản thân tác động đến tâm lý của chủ thể.

2. Tâm kịch được tiến hành trong một phòng yên lặng, đủ chỗ đặt một bục nhỏ ở giữa với chung quanh một số ghế tạo ra một nhà kịch nhỏ. Những người tham gia, dăm ba người hoặc mười, mười lăm người có thể là một nhóm tập thể với nhau, một nhóm bệnh nhân trong một bệnh viện tâm thần, một nhóm học viên thực tập tâm lý học, một nhóm người tuy không phải là bệnh nhân, vẫn thấy bản thân cần luyện tập những cách ứng xử ít vụng về, rụt rè hay hung bạo, thấy cần phài luyện tập để làm chủ bản thân.

Sau khi đã thống nhất mục tiêu, tâm kịch được tiến hành qua ba giai đoạn:

- Đầu tiên tạo ra không khí nhập cuộc, Moreno gọi là "warming up" (tiếng Pháp là 
Réchauffenment, có thể dịch là "hâm nóng"). Người thầy tạo ra không khí nhập cuộc bằng nhiều cách: trao đổi, tranh luận về nội dung phương pháp, cùng nhau ca một bài, múa một điệu, nghe một bản nhạc…

- Sau đó đề nghị một người đứng ra tự biên tự diễn một cảnh kịch, và trong khi diễn người thầy có thể đề nghị một vài người đóng thêm vai phụ, hoặc đề nghị phát triển một vài tình tiết; nhờ đã khám hòi trước đó và thông qua biểu diễn, người thầy đã suy đoán được phần nào về tâm tư và có những đề xuất hương dẫn phù hợp.



- Sau khi diễn tả, cả nhóm trao đổi, chia sẻ cảm tưởng với nhau không phải một cách trừu tượng mà với cả cảm xúc tình cảm của mỗi người (post action sharing), nếu không có ai trong nhóm thông cảm sâu sắc chia sẻ tình cảm với chủ thể thì buổi tâm kịch xem như là không thành công, chủ thể vẫn là cô đơn, nỗi khổ tâm vẫn là một mình mình biết, một mình mình hay.


3. Có thể tiến hành tâm kịch với những thủ thuật khác nhau:

- Độc thoại, vừa đi đi lại lại và diễn xuất vừa một mình nói lên cảm nghĩ của mình.
- Tự giới thiệu cương vị vai trò của mình như thường làm trong chèo và tuồng.
- Đóng xong vai này chuyển sang đóng vai khác.
- Đảo vai, một người đóng vai trò ngược lại với vai trò bình thường như đóng vai bố mẹ, bố mẹ đóng vai con, con đóng vai thầy và ngược lại.
- Những vai phụ làm cho nhân vật chính nổi lên hoặc mỗi vai phụ thể hiện một nét nào đó trong nhân cách của vai chính hoặc diễn lại quá khứ của nhân vật chính qua từng giai đoạn.
- Cho soi gương, thực ra là trong những trường hợp chủ thể bị ức chế, cho một người khác đứng diễn những cách ứng xử của chủ thể, gây ra những phản ứng của chủ thể.
- Đề xuất chủ thể diễn ra những hư giác, hoang tưởng, mộng mị, dự phỏng tương lai của mình. 
- Tạo ra những tình huống nhất định có kịch tính thử xem chủ thể ứng xử như thế nào. 
- Những người ngồi xem có thể ngoảnh mặt đi giả vờ như không nghe thấy gì, hoặc có thể tắt đèn đi để biểu diễn trong bóng tối.



- Với trẻ em, có thể vận dụng trò chơi nhập vai trong gia đình, lớp học giữa trẻ em và người lớn, giữa trẻ em với nhau, giữa trẻ em và thú vật, đồ vật…Những trò chơi này là biện pháp có hiệu lực để giải quyết những mâu thuẫn thường xảy ra giữa trẻ em và người lớn, giữa trẻ em với nhau; không giúp trẻ em tiến bộ, còn giúp cho bố mẹ, thầy cô tự hiểu mình hơn và biết làm chủ bản thân hơn. Trong trường hợp con một, bố mẹ, ông bà biết chơi phân vai với con cháu làm cách tốt nhất thay thế phần nào anh chị em.
- Trong những trường hợp rối loạn tâm lý nặng, tâm kịch phải khuấy đông sâu sắc những hoang tưởng ám ảnh của bệnh nhân. Những “pháp thuật” được vận dụng trong nhiều tôn giáo, trong những vụ lên đồng nếu loại bỏ những trường hợp lừa đảo đứng về phương diện tâm lý học mà xét, thực chất là những cách trị liệu tâm lý khá hoàn chỉnh và có hệ thống nhất định. Nhưng pháp thuật này tạo ra một không khí nhập cuộc với ca nhạc dựng cảnh với màu sắc hương khói, tạo ra tâm thế, tâm trạng để dễ dàng nhập vai thông qua áo quần, bộ điệu, ngân nga khấn vái …mỗi tình tiết đều được nghiên cứu khá tỉ mĩ, sau những buổi lễ như vậy, thầy và trò không phải chỉ hiểu rõ một điểm, một vấn đề nào, mà đã qua một cơn rung chuyển toàn bộ con người, tác động sâu sắc đến những cơ cấu, cơ chế thầm kín nhất. 



Mỗi con người lớn lên trong những môi trường văn hóa nhất định, mang theo những vô thức cả một quá trình nhiều tạp tạo ra những nếp ứng xử , những khuôn nếp tư tưởng không dễ gì tháo gỡ với những phương pháp trị liệu lấy gốc từ những nếp văn hoá khác. 

Kinh nghiệm cho thấy nhiều tâm pháp phương Tây khó mà áp dụng ở các nước Á Phi, ngay những tâm pháp có hiệu lực đối với người Kinh ở đồng bằng chưa chắc có hiệu lực đối với những tộc người thiểu số ở miền núi. Đối với những tâm pháp cổ truyền, sau khi loại trừ tụi lừa đảo, cần nghiên cứu nghiêm túc chứ không gat bỏ chỉ xem đây là mê tín dị đoan; đó cũng là một bộ phận của y học cổ truyền.

4. Tổng hợp lại, tâm kịch và những tâm pháp tương tự giúp cho:

- Tháo gỡ những vướng mắc trong cơ thể do những nếp quen, nhiễm tập.
- Tháo gỡ những vướng mắc về tư tưởng nhận thức.
- Tháo gỡ những vướng mắc về cảm xúc tình cảm.

Mục tiêu cuối cùng là tạo ra sự thoải mái trong mối quan hệ với người khác , thoải mái đối với bản thân, tiến tới những tháo gỡ không những vướng mắc, những nếp cũ mà còn có khả năng tạo ra những hình thức ứng xử mới; cao hơn nữa là tự giác về những lối ứng xử của bản thân, làm chủ bản thân và khả năng sáng tạo nghệ thuật.



Tất cả đều thông qua những vận động cơ thể, tức nét mặt, tư thế, bộ điệu và cách phát âm. Khi thực hiện trong một nhóm cũng giúp cho nhận thức về những vận động trong nhóm và ứng xử của bản thân: nhận thức về cách cách ứng xử của người khác là tấm gương soi rõ cho bản thân . Từ những biến chuyển tâm lý trong buổi tâm kịch, hiệu quả có khả năng dần dần ành hưởng đến nhiều mặt khác trng cuộc sống. Kết quả là bước đầu xóa bỏ hay giảm nhẹ một triệu chứng bất lợi, sâu sắc hơn thì có thể cải tạo tâm tư một cách toàn diện.

Như một học sinh ở nhà thì rất thuộc bài, nhưng hễ ở lớp đứng trước thầy cô thì run rẩy quên hết; cho học sinh ấy đọc bài trước một học sinh khác đóng vai giáo viên và đảo lại cho em ấy đóng vai giáo viên kiểm tra một bạn khác lên đọc bài, làm vài lần như thế, em bé có thể hết rụt rè, học tập bình thường. Cũng có thể sau những buổi chơi phân vai như vậy, có những biến chuyển sâu sắc về tính tình, vì trong quá trình chăm sóc em bé, nhà tâm lý phát hiện ra những căn nguyên gây ra tính rụt rè sợ hãi đứng trước thầy cô, như thái độ của bố mẹ mẹ chẳng hạn. Hoặc nhà tâm lý đã trực tiếp tác động đến bố mẹ, hoặc chính bố mẹ trong quá trình theo dõi tự giác được về những cách cư xử bất thường đến với con.

Một thí dụ khác: một em gái 9 tuổi, mỗi lần mặc áo quần để đi học là sinh sự gay gắt với mẹ, mẹ con giằng co nhau. Đảo vai, cho em bé làm mẹ và mẹ làm con. Em bé đóng vai bà mẹ rất đạt, làm cho bà mẹ thốt lên: “Tôi không ngờ khi tôi mặc áo cho con laị cau có dữ dằn đến thế!” Sau đó hai mẹ con dàn hòa với nhau.

Một cậu bế 4 tuổi lên cầu thang nũng nịu đòi mẹ bế. Bà mẹ bảo bây giờ con làm mẹ, mẹ làm con; rồi bà mẹ nũng nịu đòi được bế lên cầu thang, cậu bé đóng vai mẹ liền bảo: “Con lớn như thế ai mà bế nổi”. Rồi anh ta ngang nhiên một mình bước lên cầu thang.

Gặp những trường hợp phức tạp hơn có thể:

- Cho chủ thể tự biên tự diễn những cảnh sống gây hấn.
- Hoặc chỉ bước đầu tập luyện cho tự giác những cách ứng xử phi ngôn ngữ của bản thân như đứng trước người lạ không dám ngửng mặt nhìn thẳng vào người kia, hoặc khi đứng lên nói trước đông người thì thở gấp hay chân run, tậap cho điều chỉnh hơi thở và cơ bắp ở chân.
- Người thầy lựa một bài thơ, một đoạn kịch sẵn có nói lên phần nào tâm tư hiện hữu của chủ thể rồi tập ngâm lên, diễn ra như đối với một diễn viên.



Kết hợp với những sinh hoạt, những nghi thức trong nhóm, có thể đề xuất ra nhiều trò chơi, cách diễn, những sinh hoạt có tính nghệ thuật (võ, ca nhạc, nặn tượng); tùy trường hợp nặng nhẹ, tiến hành hình thức nà hay hình thức khác, kéo dài ít hay nhiều buổi. Để đánh giá kết quả, cần ngay từ đầu ghi chép kết quả xét khám nghiệm một cách có hệ thống, về sau cũng khám nghiệm lại đầy đủ, chứ không thể dựa vào cảm giác chủ quan của người thầy hay chủ thể.

Để minh hoạ đầy đủ những cách làm, Moreno đưa ra một vài thí dụ sau đây:

Một người chồng đến than phiền với ông về bà vợ đanh đá suốt ngày sinh sự với thái độ và lời lẽ thô bạo, nếu kéo dài như vậy chắc phải tính đến chuyện li hôn. Hỏi ra thì bà vợ là một diễn viên đóng rất đạt những vai phụ nữ dịu dàng nết na. Moreno đề nghị với bà ta chuyển sang đóng vai một người đàn bà đanh đá, ác nghiệt. Hôm diễn, người chồng ngồi xem thốt lên: đóng hay quá, đúng như bà cư xử với tôi ở nhà. Hôm sau ông chồng vui vẻ đến bảo: Tính tình của vợ tôi thay đổi hẳn, nay về nhà tỏ ra rất dịu dàng.

Một thanh niên lo lắng đến kể lại giấc mộng, người thầy bảo: Anh nằm xuống như là ngủ và cho biết giấc mộng ấy đã diễn ra như thế nào. 

Anh kia nằm xuống nhắm mắt nói: Tôi có cảm giác như đang bay. 
Thầy hỏi: Bay ở đâu? – Bay trên khu phố của tôi và, đúng rồi chính trên nóc nhà tôi. Có khi như là sắp rơi xuống đất. 
- Tại sao anh cánh tay anh co lại thế này, có phải anh cầm một cái gì nặng lắm phải không? 
– Đúng, tôi sách một cái vali nặng, có lúc tôi rất sợ là tuột tay vali rơi xuống đất mất. 
– Vali chứa cái gì?
Ngập ngừng một lát đáp: Chứa một em bé. 
– Em bé nào vậy?
–Chính là đứa em nhỏ của tôi mới một tuổi. 

Người thầy gọi hai sinh viên thực tập sinh lý rồi bảo anh thanh niên: Đây là bố mẹ của anh, anh cần nói gì với bố mẹ cứ nói hết , ở đây chỉ là đóng kịch, anh không sợ. 
Anh thanh niên với giọng rất gay gắt: Bố mẹ đã già rồi còn bày trò ra sinh con nhỏ làm gì, con chưa học hết đại học, rồi bắt con ôm lấy đứa em nhỏ này, còn đâu sự nghiệp của con. 
Đứa bé bảo: Bố mẹ đã thu xếp cả rồi, tuy đã cao tuổi nhưng chắc cũng còn sống được ít năm nữa, và nếu có xảy ra sự gì thì rồi bố mẹ cũng để lại cho con một vốn liếng đủ nuôi em đến tuổi trưởng thành. 

Diễn xong cảnh kịch anh thanh niên toát đẫm mồ hồi: té ra trong vô thức của anh đã chớm nở mong muốn cho đứa em chết đi. Sau đó cuộc sống trong gia đình trở lại êm thấm.



Trong một bệnh viện tâm thần, một cô gái L. có hoang tưởng họp nhóm tâm kịch với một số bệnh nhân khác. Cô L. không chịu trò chuyện với ai, hai mắt trừng trừng nhìn lên trần nhà. 

Người thầy hỏi: Cô thấy những gì? 
– Chúng nó đấy, ba con quỷ đấy. 
- Quỷ nào? - Chết, quỷ sợ hãi, quỷ căm thù và ba chiếc quan tài. 

Người thầy bảo: Đây là chiếc quan tài thứ nhất, cô nằm vào đấy như là cô chết. 
Cô L. nằm xuống. 
Người thầy đến hỏi: Bà M. ơi (M. là tên của bà mẹ cô L.) tại sao bà lại nằm ở đây? – Tôi phải chết thôi, bệnh tim của tôi thế này, mà con gái của tôi đối xử tệ bạc như thế, tôi phải chết thôi. Và thần chết cũng sẽ đến bắt nó thôi. 

Ông thầy gọi một bệnh nhân khác đến hỏi: Thần chết ơi, với cô gái này thần sẽ xử ra sao. 
Thần bảo: Cô ấy còn trẻ và đẹp lắm, tôi không bắt chết đâu. Người thầy quay lại hỏi những bệnh nhân khác họ nghĩ thế nào? Mọi người đồng thanh: Cô ấy trẻ và đẹp lắm, chưa bắt chết đâu.

Rồi người thầy dẫn cô L. đến chiếc quan tài thứ hai, cho nằm xuống và hỏi: Cô thấy những gì. –Tôi sợ lắm, chung quanh tôi đều tìm cách ám hại tôi. Quay lại các bệnh nhân khác, người thày hỏi có đúng thế không? Mọi người đáp lại: Không đúng , ở đây ai cũng muốn giúp đỡ cô. Đến chiếc quan tài thứ ba, người thầy hỏi: Cô thấy gì ? – Tôi căm thù lắm. – Căm thù ai? – Căm thù bác sĩ và y tá bắt tôi làm choáng điện, kinh khủng lắm. Quay lại những bệnh nhân khác, người thầy hỏi: Các bác sĩ và y tá nghĩ sao. Mọi người đáp: Chúng tôi hứa là sẽ không bao giờ làm choáng điện với cô L. nữa.



Những thí dụ trên cho thấy những hình thức vận dụng và những tâm pháp tương tự rất đa dạng, tiến hành như thế nào, đến mức nào tùy thuộc chủ yếu vào khả năng của người thầy, kinh nghiệm trị liệu, vốn sống, vốn văn hóa và tính nhạy cảm xử lý linh động với những con người khác nhau và trong những tình huống khác nhau.

Trích trong tập " Bài giảng tâm lý học, tập IV, bàn về các loại tâm pháp" 
- Tác giả: BS Nguyễn Khắc Viện